Nhân khẩu Nam_Ấn_Độ

Tháp dân số Nam Ấn Độ

Theo điều tra nhân khẩu năm 2011, dân số Nam Ấn Độ ước đạt 252 triệu, chiếm khoảng một phần năm tổng dân số toàn quốc. Tổng tỷ suất sinh của khu vực thấp hơn mức sinh thay thay thế là 2,1, hai bang Kerala và Tamil Nadu có tổng tỷ suất sinh thấp nhất Ấn Độ khi chỉ đạt 1,7.[75][76] Do đó, tỷ lệ dân số của Nam Ấn Độ so với toàn quốc giảm đi trong giai đoạn 1981-2011.[77][78] Các đẳng cấp và bộ lạc được công nhận chiếm 18% dân số khu vực. Nông nghiệp là lĩnh vực sử dụng lao động nhiều nhất trong khu vực khi mà 47,5% dân số tham gia các hoạt động nông nghiệp.[79] Khoảng 60% dân số sống trong các công trình nhà ở vĩnh cửu.[80]

Sau khi trải qua các biến động trong những thập niên sau độc lập, kinh tế Nam Ấn Độ được ghi nhận là tăng trưởng cao hơn so với trung bình toàn quốc trong ba thập niên qua. Dù các bang Nam Ấn Độ cải thiện được một số chỉ số kinh tế-xã hội,[81][82] song nghèo nàn tiếp tục tác động đến khu vực giống như phần còn lại của liên bang, song nó suy giảm đáng kể theo thời gian. Dựa theo điều tra năm 2011, HDI của các bang miền nam ở mức cao và kinh tế tăng trưởng nhanh hơn hầu hết các bang miền bắc.[83]

Theo điều tra năm 2011, tỷ lệ biết chữ trung bình tại Nam Ấn Độ là xấp xỉ 80%, cao hơn đáng kể mức trung bình toàn quốc là 74%, Kerala có tỷ lệ biết chữ cao nhất với 93,91%.[84][85] Nam Ấn Độ có tỷ lệ giới tính nam/nữ cao nhất toàn quốc, Kerala và Tamil Nadu là hai bang đứng đầu.[86] Các bang Nam Ấn Độ xếp trong số 10 bang hàng đầu về tự do kinh tế, tuổi thọ dự tính, tiếp cận nước sạch, sở hữu nhà ở và sở hữu ti vi.[87][88][89][90][91] Mức nghèo tại Nam Ấn Độ là 19% trong khi lên đến 38% tại các bang khác. Thu nhập bình quân là 19.531 rupee, hơn gấp đôi so với 8.951 rupee của các bang khác.[92][93] Trong số ba mục tiêu liên quan đến nhân khẩu của Mục tiêu Phát triển Thiên niên kỷ Liên Hiệp Quốc dự kiến đạt được vào năm 2015, Kerala và Tamil Nadu đạt được các mục tiêu liên quan đến cải thiện y tế bà mẹ và giảm tử vong trẻ sơ sinh và tỷ vong trẻ em vào năm 2009.[94][95]

Ngôn ngữ

Nhóm ngôn ngữ lớn nhất tại Nam Ấn Độ là ngữ hệ Dravidia, đây là một hệ ngôn ngữ gồm khoảng 73 ngôn ngữ[96] Các ngôn ngữ chính được nói gồm có Telugu, Tamil, KannadaMalayalam.[97] Tulu được khoảng 1,5 triệu người nói tại ven biển Kerala cùng Karnataka, Konkan thuộc nhóm Ấn-Arya có khoảng nửa triệu người nói tại ven biển Konkan. Tiếng Anh cũng được nói phổ biến trong các khu vực đô thị tại Nam Ấn Độ.[98] Khoảng 12 triệu người Hồi giáo nói tại miền nam Ấn Độ nói tiếng Urdu.[99][100][101] Tamil, Telugu, Kannada, Malayalam và Konkan được liệt kê trong 22 ngôn ngữ chính thức của Ấn Độ theo Đạo luật Ngôn ngữ chính thức (1963). Tamil là ngôn ngữ đầu tiên được Chính phủ Ấn Độ cấp vị thế ngôn ngữ cổ điển vào năm 2004.[102][103] Các ngôn ngữ lớn khác cũng được cấp vị thế này là Kannada (năm 2008), Telugu (năm 2008) và Malayalam (năm 2013)[104][105]

STTNgôn ngữSố người nói[106]Chính thức tại
1Telugu74.002.856Andhra Pradesh, Telangana, Yanam (Puducherry)
2Tamil60.793.814Tamil Nadu, Puducherry
3Kannada37.924.011Karnataka
4Malayalam33.066.392Kerala, Lakshadweep, Mahé, Puducherry
5Konkan2.489.015Kerala, Karnataka

Tôn giáo

Tôn giáo
ReligionPercent(%)
Ấn Độ giáo
  
80%
Hồi giáo
  
11%
Cơ Đốc giáo
  
8%
Khác
  
1%

Ấn Độ giáo là tôn giáo lớn nhất tại Nam Ấn Độ với khoảng 80% dân số tin theo. Khoảng 11% dân số tin theo Hồi giáo và 8% tin theo Cơ Đốc giáo.[107] Bằng chứng về tôn giáo tiền sử tại Nam Á được lấy từ các bức hoạ trên đá từ thời kỳ đồ đá giữa nằm rải rác, mô tả các điệu nhảy và nghi lễ, chẳng hạn như các di chỉ khắc đá Kupgal tại miền đông Karnataka.[108] Ấn Độ giáo được cho là tôn giáo cổ nhất thế giới, có nguồn gốc từ thời tiền sử tại Ấn Độ.[109] Các truyền thống tinh thần chính tại Nam Ấn Độ gồm có cả hai nhánh ShivaVishnu của Ấn Độ giáo, song triết học Phật giáoJaina giáo có ảnh hưởng trong vài thế kỷ trước.[110] Tín ngưỡng Ayyavazhi được truyền bá đáng kể qua nhiều nơi tại phía nam của Nam Ấn Độ.[111][112] Hồi giáo được các thương nhân Ả Rập đưa đến Nam Ấn Độ vào đầu thế kỷ 7, đầu tiên là Bờ biển Malabar của Kerala và được truyền bá trong thời gian cai trị của các vương quốc Hồi giáo Deccan từ thế kỷ 17 đến thế kỷ 18, và người Hồi giáo gốc Ả Rập tại Kerala được gọi là Jonaka Mappila.[113] Cơ Đốc giáo do Tôma Tông đồ đưa tới Nam Ấn Độ, ông đến Muziris thuộc Kerala vào năm 52 và rửa tội cho các khu dân cư Do Thái của Kerala.[114][115] Kerala cũng là quê hương của một trong các cộng đồng Do Thái cổ nhất thế giới, họ được cho là là đến bờ biển Malabar trong thời gian cai trị của Quốc vương Solomon (khoảng 971 - 931 TCN).[116][117]

Tài liệu tham khảo

WikiPedia: Nam_Ấn_Độ http://www.aai.aero/public_notices/aaisite_test/rh... http://www.aai.aero/traffic_news/sep2k15annex2.pdf http://www.aai.aero/traffic_news/sep2k15annex3.pdf http://www.aai.aero/traffic_news/sep2k15annex4.pdf //www.amazon.com/dp/B003DXXMC4 //www.amazon.com/dp/B00IQKGW1M http://www.andhrabulletin.com/Andhra_info/Ap_Symbo... http://www.britannica.com/EBchecked/topic/154969/D... http://www.britannica.com/EBchecked/topic/359722/M... http://www.britannica.com/eb/article-9003680